Nguồn gốc Kinh điển Pali

Truyền thống Theravadin tin rằng Đức Phật đã dạy đủ cả ba tạng kinh điển Pali và hầu hết chúng đều bắt nguồn từ Đức Phật và các đệ tử trực tiếp của Ngài. Theo kinh điển, một hội đồng được tổ chức ngay sau khi Đức Phật nhập diệt để thu thập và bảo tồn giáo lý của Ngài. Truyền thống Theravada cho rằng kinh điển đã được truyền khẩu từ thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên đến thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên, cho đến khi kinh điển được lập thành văn tự.[20] Việc ghi nhớ được thực thi bằng cách tụng đọc thường xuyên của cộng đồng tăng-già. Chỉ có một số bổ sung sau này được thực hiện. Các pitaka Theravādin đầu tiên được viết ra ở Sri Lanka tại chùa Alu Viharaya không sớm hơn 29–17 TrCN. [21]

Bối cảnh địa lý trong các kinh văn có thể xác định tương ứng với các địa điểm ở vùng sông Hằng phía đông bắc Ấn, bao gồm các tiểu quốc Kosala, Kasi, VajjiMagadha.[22] Truyền thống Theravada thường xem tiếng Pali đồng nghĩa với ngôn ngữ Magadha mà Đức Phật thường sử dụng, nhưng các nhà ngôn ngữ học lại xác định tiếng Pali có liên quan chặt chẽ hơn với các ngôn ngữ prakrit khác ở miền tây Ấn và nhận thấy sự không tương thích đáng kể với một số ví dụ được bảo tồn giữa tiếng Magadha và các ngôn ngữ prakrit đông bắc khác.[23] Nghiên cứu ngôn ngữ học cho thấy rằng những lời dạy của Đức Phật có thể ban đầu được ghi lại bằng ngôn ngữ đông Ấn, nhưng đã được chuyển sang ngôn ngữ Pali, tiền thân của ngôn ngữ tây Ấn vào khoảng trước thời kỳ Asoka. [22]

Phần lớn tài liệu trong Kinh điển không phải đặc thù của Theravādin, mà là bộ sưu tập các giáo lý mà phái này bảo tồn từ phần giáo lý ban đầu, trước thời kỳ Bộ phái. Theo Peter Harvey, nó chứa đựng những tài liệu mâu thuẫn với quan điểm Theravādin chính thống sau này. Ông cho rằng "Các Theravādin có thể đã thêm các kinh văn vào Kinh điển một thời gian sau đó, nhưng dường như họ không can thiệp vào những gì họ đã có từ thời kỳ trước." [24]

Các học giả có sự khác nhau về quan điểm của họ về nguồn gốc cuối cùng của Kinh điển Pali, nhưng nhìn chung tin rằng Kinh điển bao gồm một số tầng văn bản tương đối sớm và muộn, nhưng có rất ít sự đồng thuận về niên đại tương đối của các phần khác nhau của Kinh điển hoặc văn bản nào thuộc về phần nào của niên đại. [22]

Tác giả

Truyền thống Theravadin

Prayudh Payutto lập luận Kinh điển Pali đại diện cho những lời dạy của Đức Phật, về cơ bản không thay đổi, ngoại trừ những sửa đổi nhỏ. Ông cho rằng nó cũng kết hợp những lời dạy trước thời Đức Phật, và những lời dạy sau này đã được các đệ tử của Đức Phật ghi nhớ khi Ngài còn tại thế. Lập luận của ông dựa trên nghiên cứu về các tiến trình của kỳ đại kết tập đầu tiên, và các phương pháp ghi nhớ được các nhà sư sử dụng, có từ thời Đức Phật còn tại thế. Nó cũng dựa trên khả năng của một vài nhà sư hiện đại ghi nhớ toàn bộ kinh điển. [25]

Tỳ kheo Sujato và Tỳ kheo Brahmali cho rằng có khả năng phần lớn kinh điển Pali có từ thời Đức Phật. Họ căn cứ điều này trên nhiều bằng chứng bao, gồm cả kỹ thuật thời bấy giờ được mô tả trong kinh điển (ngoài các văn bản rõ ràng là sau này), và rằng nó không bao gồm những lời tiên tri được viết ngược lại của Thế tôn. Những thuật ký của vua A Dục (thường được mô tả trong các kinh điển Đại thừa) đã gợi ý rằng kinh điển nguyên thủy có trước thời đại của ông, rằng trong các mô tả về địa lý chính trị, nó trình bày Ấn Độ vào thời của Đức Phật, đã thay đổi ngay sau khi ông qua đời, rằng nó không đề cập đến các địa điểm ở Nam Ấn Độ, vốn đã được người Ấn Độ biết đến không lâu sau khi Đức Phật qua đời và nhiều dòng bằng chứng khác xác định niên đại của tài liệu từ thời của Ngài. [7]

Theo các học giả hàn lâm

Quan điểm của các học giả liên quan đến tác giả Kinh điển Pali có thể được phân thành ba loại: 

  1. Tác giả là chính Thích-ca Mâu-ni và những đệ tử đầu tiên của Ngài
  2. Kinh điển được phát triển trong thời kỳ Phật giáo tiền bộ phái
  3. Thuyết bất khả tri

Các học giả vừa ủng hộ vừa phản đối các quan điểm hiện có theo những cách khác nhau.

Quan điểm tác giả là chính Đức Phật

Một số học giả về Phật giáo sơ kỳ cho rằng cốt lõi của giáo lý Phật giáo trong Kinh điển Pali có thể bắt nguồn từ chính Đức Phật, nhưng một phần của nó cũng được phát triển sau khi Đức Phật nhập diệt bởi những môn đồ đầu tiên của Ngài. Richard Gombrich cho rằng những lời thuyết giảng chính của Đức Phật (như trong Luật tạngKinh tạng) là mạch lạc và chặt chẽ, và phải là công việc của một người duy nhất: chính Đức Phật, chứ không phải là một nhóm hậu thế sau khi Ngài qua đời. [lower-alpha 2] [27]

Các học giả khác thận trọng hơn, quy một phần kinh điển Pali cho những môn đệ đầu tiên của Đức Phật. Peter Harvey [28] cho rằng "phần lớn" kinh điển Pali phải bắt nguồn từ Đức Phật, đồng thời với "các phần của kinh điển Pali rõ ràng có nguồn gốc sau thời Đức Phật." [lower-alpha 3] AK Warder thì tuyên bố không có bằng chứng cho thấy rằng giáo lý chung của các bộ phái sơ khai được hình thành bởi bất kỳ ai khác ngoài Đức Phật và các đệ tử trực tiếp của Ngài. [lower-alpha 4] JW de Jong cho rằng sẽ là "đạo đức giả" nếu khẳng định chúng ta không thể nói gì về những giáo lý sơ khai. Ông lập luận "những ý tưởng cơ bản của Phật giáo được tìm thấy trong các tác phẩm kinh điển, rất có thể đã được tuyên bố bởi Ngài [Đức Phật], được truyền thừa và phát triển bởi các đệ tử của Ngài, và cuối cùng, được hệ thống hóa trong các công thức cố định.” [30]

Alex Wynne đã nói rằng một số văn bản trong Kinh điển Pali có thể có từ thuở sơ khai Phật giáo, có lẽ bao gồm nội dung giáo lý của Đức Phật và trong một số trường hợp, có thể cả những lời của Ngài. Từ một số tài liệu cổ xưa, có thể xác định được những bản kinh có từ thời sơ khai của Phật giáo, có lẽ bao gồm nội dung giáo lý của Đức Phật, và trong một số trường hợp, có thể xác định được những từ ngữ của Ngài". Ông gợi ý rằng kinh điển đã được biên soạn từ rất sớm ngay sau khi Đức Phật nhập niết bàn, nhưng sau một thời gian tự do ứng biến, những giáo lý cốt lõi được lưu giữ gần như nguyên văn bằng trí nhớ. [31] Hajime Nakamura viết rằng, mặc dù không có gì có thể chắc chắn coi Gautama là một nhân vật lịch sử, nhưng một số câu nói hoặc cụm từ phải bắt nguồn từ ông. [32]

Quan điểm tác giả phái triển trong thời kỳ Phật giáo tiền bộ phái

Hầu hết các học giả đều đồng ý rằng có một phần lớn kinh điển nguyên thủy đã một cộng đồng tương đối sớm duy trì và truyền bá. [33] [lower-alpha 5]

Phần lớn nội dung kinh điển Pali cũng được tìm thấy trong kinh điển của các trường phái sơ khai khác. Một số phiên bản được bảo tồn, chủ yếu bằng chữ Hán. Nhiều học giả đã lập luận rằng tài liệu được chia sẻ này có thể từ thời kỳ Phật giáo tiền bộ phái. Đây là giai đoạn trước khi các bộ phái đầu tiên phân chia vào khoảng thế kỷ thứ IV hoặc thứ III trước Công nguyên.

Quan điểm về thuyết bất khả tri

Một số học giả xem Kinh điển Pali đã được mở rộng và thay đổi từ một hạt nhân chưa biết.[34] Các lập luận quan điểm bất khả tri gồm bằng chứng cho là những lời dạy của Đức Phật có từ (rất lâu) sau khi Ngài qua đời.

Một số học giả về Phật giáo Ấn Độ và Phật giáo Tây Tạng sau này nói rằng rất ít hoặc không có gì có thể liên quan đến thời kỳ Đức Phật. Ronald Davidson [35] ít tin rằng phần lớn, nếu có, kinh điển còn sót lại thực sự là lời dạy của Đức Phật lịch sử. [33] Geoffrey Samuel [36] cho biết Kinh điển Pali phần lớn bắt nguồn từ công trình của Buddhaghosa và các cộng sự vào thế kỷ thứ 5. [37] Gregory Schopen lập luận [38] phải đến thế kỷ thứ 5 đến thế kỷ thứ 6, chúng ta mới có thể biết bất cứ điều gì chắc chắn về nội dung của Kinh điển. Lập luận này đã bị chỉ trích bởi A. Wynne. [5]

Quyền tác giả của Abhidhamma Pitaka

Các học giả phương Tây gợi ý rằng phần Vi diệu pháp tạng có khả năng bắt đầu được biên soạn vào khoảng năm 300 TrCN, nhưng có thể nó đã dựa trên một truyền thống trước đó về các danh sách và chữ đánh giá được gọi là 'matrika' (mẫu đề). [12] [39] Các tài liệu truyền thống bao gồm nó trong số các văn bản được tụng đọc tại kỳ Đại kết tập đầu tiên và quy sự khác biệt về hình thức và phong cách đối với sáng tác của nó bởi Sariputra.[40] [41]

Những kinh sách đầu tiên của kinh điển Pali

Các góc nhìn khác nhau đã được đưa ra về những kinh sách đầu tiên của Kinh điển. Phần lớn các học giả phương Tây coi lớp sớm nhất có thể xác định được chủ yếu là các tác phẩm văn xuôi,[42] Luật tạng (không bao gồm Parivāra)[43] và bốn nikāya đầu tiên của Kinh tạng, [44] [45] và có lẽ cũng có một số tác phẩm ngắn, kệ[46] chẳng hạn, trong Kinh Tập (Sutta-nipata). [43] Tuy nhiên, một số học giả, đặc biệt là ở Nhật Bản, cho rằng Kinh tạng là kinh điển sớm nhất trong tất cả các kinh điển Phật giáo, tiếp theo là Itivuttaka và Udāna. [47] Tuy nhiên, một số sự phát triển trong giáo lý có thể chỉ phản ánh những thay đổi trong giáo lý mà chính Đức Phật đã áp dụng, trong suốt 45 năm Đức Phật thuyết pháp. [lower-alpha 6]

Các học giả thường đồng ý rằng những kinh sách ban đầu, về sau bao gồm cả một số bổ sung.[48] Các bổ sung muộn này có thể từ một thời kỳ sớm hơn nhiều. [49] [50] [51] Các khía cạnh khác của Kinh điển Pali, chẳng hạn như thông tin về xã hội và lịch sử Nam Á, đang bị nghi ngờ vì Kinh điển đã được biên tập lại vào thế kỷ thứ 5 hoặc thứ 6 sau Công nguyên, gần một nghìn năm sau khi Đức Phật nhập diệt. [10] Hơn nữa, bản thân kinh điển Pali của Sri Lanka đã đề cập việc biên soạn được thực hiện vào cuối thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên. Theo học giả Phật giáo Nguyên thủy Lars Fogelin, Kinh điển Pali của Tích Lan là một kinh điển đã được sửa đổi và "không có lý do chính đáng nào để cho rằng Phật giáo Tích Lan giống với Phật giáo Nguyên thủy ở đại lục, và có nhiều lý do để tranh luận rằng nó không giống với Phật giáo Nguyên thủy"." [52]

Tiến sĩ Peter Masefield MPTS từng công bố nhiều công trình nghiên cứu về một dạng tiếng Pali được gọi là tiếng Pali Đông Dương hay 'Kham Pali'. Đây vẫn được xem là một biến thể của tiếng Pali, nhưng Tiến sĩ Masefield cho rằng việc kiểm tra thêm một kho văn bản rất đáng kể có thể sẽ cho thấy rằng đây là một phương ngữ Pali thực thụ. Ông bổ sung rằng vào lần tái du nhập thứ ba của Phật giáo Nam truyền vào Sri Lanka (trường phái Xiêm La), các ghi chép ở Thái Lan cho biết một số lượng lớn các kinh văn cũng đã được lấy đi. Dường như khi giới tu sĩ không còn ở Sri Lanka, nhiều kinh văn cũng bị thất lạc. Do đó, Kinh tạng Pali Sri Lanka trước tiên đã được dịch sang tiếng Pali Trung-Ấn, và sau đó, ít nhất một phần, được dịch ngược lại sang tiếng Pali.[53]

Theo tài liệu Mahavamsa của Sri Lanka, Kinh điển Pali được viết ra dưới triều đại của vua Vattagāmini (Vaṭṭagāmiṇi) (thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên) ở Sri Lanka, tại kỳ kết tập thứ tư. Hầu hết các học giả cho rằng rất ít nếu có bất cứ điều gì được thêm vào Kinh điển sau này, [54] [55] [56] mặc dù Schopen đặt câu hỏi về điều này.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Kinh điển Pali http://fo.ifeng.com/special/beiyejing http://www.nibbana.com/tipitaka/tipilist.htm http://www.palitext.com/ http://www.palitext.com/JPTS_scans/JPTS_1990_XV.pd... http://www.purifymind.com/RichardGombrich.htm http://pathpress.wordpress.com/bodhesako/beginning... http://journals.ub.uni-heidelberg.de/index.php/jia... http://journals.ub.uni-heidelberg.de/index.php/jia... http://journals.ub.uni-heidelberg.de/index.php/jia... http://www.fairfield.edu/academic/profile.html?id=...